Ủ chua các loại cây họ đậu 10/01/2018 Ủ chua là kỹ thuật bảo quản thức ăn thô xanh nhờ quá trình lên men yếm khí, những phần cứng của thân cây bị mềm ra và làm cho nó trở nên dễ dàng đồng hóa. Họ và tên Tên đăng nhập (Viết liền, không dấu, tối đa 20 ký tự) Địa chỉ Email (Dùng khi Quên mật khẩu) Mật khẩu (Tối thiểu 6 ký tự, tối đa 12 ký tự) Xác nhậnMật khẩu Thông tin thêm về họ Đậu các dòng khác ở Huyện Diễn Châu, Tỉnh Nghệ An Gồm họ Đậu hậu duệ cụ Đậu Nhân Nghĩa và họ Đậu dòng Trong bài viết này, Quang Cảnh Xanh sẽ giới thiệu với các bạn top 23 cây xanh công trình được trồng nhiều nhất hiện nay, cây rất dễ chăm sóc và có thể phát triển tốt trong điều kiện khí hậu hiện nay. 1. Cây ngọc lan. Cây còn có tên gọi khác là mộc lan, thuộc họ cây sứ Để phân biệt rõ hơn về các họ, chúng tôi chia làm 3 loại là những họ phổ biết nhất hiện nay, họ ít phổ biết hay ít được biết đến hơn hiện nay, và cuối cùng là họ của dân tộc Thái ở tại Việt Nam. Việt Nam có số lượng họ phong phú như vậy bởi đã có sự giao thoa văn hóa truyền thống, họ của người kinh chiếm đa phần với hơn 300 họ, bên cạnh đó còn những họ khác của nhiều dân tộc thiểu số và họ của người Hoa xưa. Cây phất dụ có hơn 20 loài cùng họ ở Việt Nam, trong đó, gần như cây nào cũng mang lại may mắn, phát tài đúng như tên gọi của nó: Phất dụ xanh – biểu tượng của may mắn; phất dụ thơm – là cây thiết mộc lan, thơm về đêm; phất dụ rồng – còn goi là huyết rồng, còn Hiện nay loài trúc này đang có nguy cơ bị tuyệt chủng tại Việt Nam. Trúc Hoá Long là một trong những loại cây quý hiếm ở Việt Nam có nguy cơ tuyệt chủng. Cây có dáng độc, lạ và đẹp nên thường được dùng để làm cây cảnh và hàng mỹ nghệ. Ngoài ra, có thể dùng trúc hoa 17 thg 2, 2022 · Cây huỳnh đàn là một loại cây gỗ thuộc họ đậu, được xem là một loại gỗ vô cùng quý hiểm nằm trong danh sách gỗ nhóm 1 Việt Nam (loại thực vật Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd. Với những người làm nông nghiệp thì chắc đã quá quen thuộc với các loại cây họ đậu và biết đến một khả năng đặc biệt của chúng đó là khả năng cố định nitơ trong không khí thông qua việc cộng sinh với vi khuẩn nốt rễ Rhizobium – một loại vi khuẩn sống trong đất, để tạo ra đạm sinh học cho đất và cây trồng nhất là cây có múi. Bên cạnh việc cung cấp đạm sinh học thì các loại cây họ đậu còn mang đến nhiều lợi ích khác trong lĩnh vực nông nghiệp như Các loại cây họ đậu được xem là cây che phủ đất, giảm xói mòn và rửa trôi phân bón cũng như các chất hữu cơ trong tầng đất canh cũng là loại cây phân xanh bổ sung lượng sinh khối lớn, giàu dinh dưỡng cho đất sinh khối che phủ và khả năng cố định đạm mà các cây trồng họ đậu đã từng bước cải thiện cấu trúc và độ phì nhiêu của đất. Giúp cây trồng chính sinh trưởng khỏe mạnh, năng suất hơn, chống chịu tốt hơn với các biến động về thời ra, việc xen canh cây họ đậu trong vườn còn tăng nguồn thu và lợi nhuận kinh tế cho người nông dân từ sản phẩm phụ, giảm dần nhu cầu đầu tư về phân bón. Từ những lợi ích thiết thực mà chúng mang lại, các loại cây trồng họ đậu đang được xen canh nhiều hơn trong các vườn trồng cây ăn quả, vườn cây công nghiệp, vườn trồng canh tác theo hướng tự nhiên, sinh thái vườn rừng. Dưới đây là một số loại cây trồng họ đậu cố định đạm và cây họ đậu không cố định đạm. 1. Cây họ đậu cố định đạm Cây đậu mèo Là một loài cây họ đậu leo, sinh trưởng rất nhanh, có thể tạo sinh khối lớn trong một thời gian ngắn. Có nhiều loại cây đậu mèo, đậu mèo dại có hoa tím, quả thường có nhiều lông; Đậu mèo hoa xanh, không có lông thường được trồng nhiều hơn vì có khả năng chống chịu khá tốt với sâu bệnh. Đậu mèo là cây họ đậu có khả năng cố định nitơ tốt và hàm lượng nitơ trong thân lá cao. Đậu mèo có thể trồng được quanh năm, trồng đậu mèo xen với cây ăn quả hoặc ngô, sắn. Đậu mèo có sức sinh trưởng rất nhanh nên khi trồng cần biết lợi dụng đặc tính này để sử dụng tốt nhất khả năng che phủ và lượng sinh khối lớn của đậu mèo, tránh những ảnh hưởng xấu cho các loại cây trồng khác. cây đậu mèo Cây so đũa Cây so đũa hay điền thanh hoa lớn có nguồn gốc từ Ấn Độ hay Đông Nam Á và thường mọc ở những nơi nóng ẩm. Ở Việt Nam, cây thường mọc hoang hoặc được trồng dọc theo các bờ ruộng, ven đường, trồng làm hàng rào quanh vườn cây ăn trái,… Cây so đũa mọc và phát triển rất nhanh, thường có thân cao 5-10 m, có vỏ dầy, sần sùi và tiết ra mủ đỏ, có thể sống từ 5-10 năm. Thân cành của cây so đũa được dùng làm củi đun, làm nguyên liệu bột giấy, nguyên liệu để trồng nấm mộc nhĩ, bào ngư.. Rễ thuộc loại rễ cọc, có nhiều rễ phụ ăn cạn và rễ non, được vi khuẩn cộng sinh để tạo nốt sần có khả năng tổng hợp đạm từ không khí cung cấp đạm sinh học cho cây trồng. cay so đũa Đậu săng đậu săng hay đậu triều là một loài cây họ đậu, là thân thảo và thân gỗ nhỏ cây lâu năm, chịu khô hạn rất tốt song không chịu được đất quá xấu. Đậu triều thuộc dạng cây bụi, cao khoảng 2 – 6 m, là cây cố định đạm, đâm chồi nhiều, khi bấm ngọn khoảng 0,15 m. Đậu săng thích hợp với nhiều loại đất, có môi trường phân bố rộng. Đậu triều có vòng đời khoảng 2-3 năm, cung cấp đạm tự nhiên cho cây trồng theo hệ thống rễ. Đậu săng được dùng để làm lương thực hạt đậu, thức ăn cho súc vật. Ngoài ra, đậu triều là một loại cây cải tạo đất rất hiệu quả, là cây phân xanh, bổ sung một lượng sinh khối hữu cơ lớn cho đất trồng. Hàn the ba lá Hàn the ba lá hay còn gọi là cây sơn lục đậu có tên khoa học là Desmodium heterophyllum, là một loài thực vật thuộc họ Đậu. Cây có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt trên nhiều loại đất khác nhau, cây có khả năng cố định đạm và cải thiện đất. Cây hàn the ba là là loại cây trồng phủ mặt đất canh tác nông nghiệp đầy tiềm năng. Hàn the ba lá có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt trên nhiều loại đất khác nhau nhất là trên đất bạc màu, thiếu dinh dưỡng. Cây có khả năng cố định đạm, sinh khối cao giúp cải thiện đất. Cây mọc tạo thành thảm, bò lan sát mặt đất, dày, ít sâu bệnh, giữ đất tơi xốp, chống xói mòn, hạn chế sự xâm lấn của cỏ dại,… Cây hàn the ba lá Lạc dại Lạc dại là một loài cây họ đậu lâu năm có nguồn gốc từ Mỹ-La Tinh. Lạc dại có lá và hoa như lạc ăn; thân bò sát mặt đất, ra rễ ở các đốt than trên; củ nhỏ, thường chỉ có 1 hạt to bằng đậu tương; rễ cọc có thể hình thành từ các đốt và ăn sâu vào lòng đất. Rễ có nốt sần có khả năng cố định đạm từ ni tơ khí trời rất tốt. Lạc dại có khả năng chịu hạn tốt, chịu úng cao, có thể trồng được quanh năm, nhưng tốt nhất là mùa xuân và mùa thu với các tỉnh miền Bắc, mùa mưa với các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và miền Nam. Cây lạc dại Đậu biếc Đậu biếc còn gọi đậu hoa tím hay bông biếc. Đậu biếc là cây thân thảo, leo, thân và cành mảnh có lông. Ở Việt Nam, cây đậu biếc thường được trồng với những bông hoa leo ở bờ rào và để lấy hoa và quả. Đậu biếc còn được trồng rất nhiều để dùng làm cây phân xanh, cây che phủ đất và cải tạo đất. Đây cũng là loại cây sản sinh ra nitơ tự nhiên khá lớn như những loại cây họ đậu khác. Cây chịu nắng và hạn được trồng bằng hạt. Bộ phận chứa chất độc của cây đậu biếc là hạt và rễ. Cây đậu biếc Keo dậu Cây keo dậu có tên khoa học là Leucaena leucocephala, có nguồn gốc ở Trung và Nam nước ta, cây keo dậu còn có tên là bình linh, quả dẹp,… và mọc tự nhiên ở một số nơi thuộc duyên hải miền Trung. Keo dậu thuộc họ đậu, thân bụi hoặc thân gỗ lâu năm. Cây có thể cao tới 10 m và rễ có thể đâm sâu tới 4 m. Cây có thể sinh trưởng trên nhiều loại đất khác nhau. Cây có khả năng chịu hạn rất tốt nhưng kém chịu lạnh và sương muối. Nó được coi là một cỗ máy sản xuất sinh khối, nó cũng là loài cây rất hiệu quả trong việc cố định đạm cung cấp đạm cho cây trồng, với khối lượng lớn hơn 500 kg/ha mỗi năm. Quả và lá keo dậu có thể dùng làm thức ăn phụ cho gia súc. Do khả năng sinh thái có thể tái sinh hạt rất tốt nên người ta thường sử dụng keo dậu làm 1 loài cây tiên phong phục hồi rừng. Hạt keo dậu sẽ được gieo vãi trên đất mất tính chất đất rừng, keo dậu nảy mầm và sẽ cải tạo dần tính chất đất ở đây, tạo hoàn cảnh cho các loài cây gỗ khác có thể sinh trưởng. Cây keo dậu Cỏ trinh nữ Cỏ trinh nữ hay còn gọi là cỏ thẹn, cây xấu hổ. Cây trinh nữ thuộc loại cây thảo sống một năm dòng họ đậu. Cây có nguồn gốc từ các vùng Nam Mỹ và Trung Mỹ. Trinh nữ thuộc giống cây thân thảo đứng đối với cây non, hoặc với cây trưởng thành thì thường bò trườn. Cây có chiều dài trung bình khoảng 1 – 1,5m, thường bò trườn hoặc tựa leo gần mặt đất, thân cây bò trườn trên mặt đất thường dày hơn so với thân cây tựa leo, trên vỏ thân có nhiều gai biểu bì. Rễ cây trinh nữ thường có những nốt sần sùi, những nốt sần này có tác dụng giúp cây chống được một số loại nấm bệnh, chứa các vi sinh vật cố định đạm nội cộng sinh cung cấp đạm tự nhiên cho cây trồng. Cỏ trinh nữ Cây phi lao Phi lao hay còn gọi Xi lau, Dương, Dương liễu, danh pháp khoa học Casuarina equisetifolia. Rễ cây phi lao có nốt rễ cây như nốt rễ cây đậu, có thể cố định đạm từ không khí nên có thể sống trên cát, nơi không có đạm hữu cơ. Các lá cây phi lao dính sát vào các cành nhỏ, chỉ còn lại những vảy nhỏ mọc vòng quanh cành. Nhờ đó, diện tích quang hợp tăng lên cho phép cây phi lao tận dụng được năng lượng của ánh sáng mặt trời, diện tích thoát hơi nước lại giảm đi nên cây phi lao không bị khô héo trên cát nóng bỏng. Phi lao chắn bão cát, đem màu xanh cho vùng đất cát cố định và cát bay ven biển. Hoặc trồng làm hàng rào vùng đệm chắn gió trên các vùng đồi, xung quanh vườn cây để ngăn chặn sự xói mòn, ảnh hưởng của côn trùng gây hại vào vườn. Cây phi lao Cây vông nem Cây vông nem có tên gọi thân thân thuộc là cây vông, thuộc họ thân gỗ có gai với chiều cao trung bình 10m đến 20m. Lá cây được phân thành 3 chét, có màu xanh và phủ một lớp mịn bóng, hình tròn bầu giống quả trứng. Cây vông nem thường ra hoa có màu đỏ tươi vào tháng 3-5, có chừng 1-3 bông chụm lại thành một chùm dài. Cây có hệ rễ mang rất nhiều nốt sần tập hợp nhiều vi khuẩn cộng sinh Rhizobium leguminosarum có khả năng cố định đạm tự do. Cây vông nem có tác dụng cải tạo đất rất tốt, thích hợp với việc trồng che bóng và làm vành đai phòng hộ cho các cây công nghiệp. Cây vông nem Còn tiếp Nguồn Ngoài các loại cây che phủ có chức năng cố định đạm cải tạo đất mà chúng ta thường gặp như lạc dạc, đậu đen, đậu nành, đậu đũa … thì còn rất nhiều cây thuộc họ đậu khác mà chúng ta quen thuộc nhưng không biết đó là cây họ đậu. Chúng tôi tổng hợp lại một số cây họ đậu để các bạn dễ tìm kiếm và áp dụng cho canh tác nông nghiệp của mình thuận lợi hơn. Keo dậu hay keo giậu Keo dậu hay keo giậu danh pháp hai phần Leucaena leucocephala, còn có tên khác là táo nhơn, bọ chét, keo giun, là một loài cây gỗ nhỏ, loài cây này tại Việt Nam thường được trồng làm hàng rào nên người ta thường gọi là keo dậu. Nó thuộc về chi Keo dậu Leucaena trong Phân họ Trinh nữ Mimosoideae, họ Đậu Fabaceae, bộ Đậu Fabales và sinh trưởng ở vùng nhiệt đới. Tán rộng, vỏ cây màu xám. Lá thuộc dạng lá kép lông chim 2 lần chẵn, trên cuống lá cấp 1 có các tuyến hình chậu một đặc điểm điển hình thuộc phân họ trinh nữ. Hoa tự đầu trạng, tràng hoa màu trắng. Quả tạo thành chùm. Hạt khi xanh có thể ăn được và thường dùng làm thuốc trục giun, khi quả chín, hạt chuyển màu nâu đen. Keo dậu ngoài cải tạo đất còn một số cách sử dụng khác Hiện nay nó được coi như là một nguồn cung cấp than củi và năng lượng tương đương 1 triệu thùng dầu hàng năm từ diện tích 120 km² hay thuốc trừ giun ở Sumatra, Indonesia. Trong tiếng Indonesia nó được gọi là petai cina và trong tiếng Java là lamtoro hay lamotorogung. Nó được coi là một cỗ máy sản xuất sinh khối, do sản lượng lá của nó tương đương với khối lượng khô khoảng 2-20 tấn/ha trong một năm và củi khoảng 30–40 m³/ha trong một năm, với sản lượng có thể gấp đôi trong những khu vực có khí hậu thích hợp. Nó cũng là loài cây rất hiệu quả trong việc cố định đạm, với khối lượng lớn hơn 500 kg/ha mỗi năm. Quả và lá keo dậu có thể dùng làm thức ăn phụ cho gia súc. Do khả năng sinh thái có thể tái sinh hạt rất tốt nên người ta thường sử dụng keo dậu làm 1 loài cây tiên phong phục hồi rừng. Hạt keo dậu sẽ được gieo vãi trên đất mất tính chất đất rừng, keo dậu nảy mầm và sẽ cải tạo dần tính chất đất ở đây, tạo hoàn cảnh cho các loài cây gỗ khác có thể sinh trưởng. Tại Việt Nam, cây keo dậu còn có tên gọi khác là bình linh Nam Bộ, táo nhơn Trung Bộ hay bọ chít Keo dậu phát triển ở hầu hết các vùng sinh thái của Việt Nam, nhưng nhiều ở nam Trung Bộ, như ở Khánh Hòa. Keo dậu sinh trưởng tốt trên đất thoát nước, ít chua, có thể thích ứng với đất mặn vừa ven biển. Keo dậu chịu khô hạn rất tốt nhưng không chịu úng đặc biệt là khi còn non. Bột keo dậu là thức ăn bổ sung caroten, vitamin, khoáng chất cho gia cầm và gia súc non. Lượng protein trong lá keo dậu khá cao 270 – 280 g/kg, tỷ lệ xơ thấp 155 g/kg và hàm lượng caroten khá cao 200 mg. Keo dậu có chứa độc tố mimosin nên chỉ sử dụng dưới 25% trong khẩu phần cho gia súc nhai lại, dưới 10% đối với lợn và dưới 5% đối với gia cầm. Tuy nhiên ở nhiều vùng thì nó lại bị coi là loại thực vật xâm hại. Kim Tước Chi Hay Cây Chuỗi Hoa Vàng Cây chuỗi hoa vàng còn có tên gọi khác là cây kim tước, có tên khoa học là Laburnum, tên tiếng anh là golden Chain. Đây là cây rụng lá nhỏ, một chi của hai loài cây gỗ nhỏ trong phân họ Đậu Fabaceae, Laburnum anagyroides kim tước phổ biến và L. Alpinum. Cây chuỗi hoa vàng có nguồn gốc núi của miền nam châu Âu từ Pháp đến bán đảo Balkan. Một số nhà thực vật học bao gồm một loài thứ ba, Caramanicum Laburnum, nguồn gốc đông nam châu Âu và Tiểu Á thường được xem là một chi riêng biệt Prodocytisus, liên quan chặt chẽ hơn với loài brooms. Cây chuỗi hoa vàng có màu vàng tươi sáng bằng hạt đậu, hoa mọc thành các cành rũ xuống 10-30 c 4-12 in dài trong mùa xuân, rất phổ biến là loài cây vườn. Các lá dạng ba, hơi giống như cỏ ba lá. Lưu Ý Tất cả các bộ phận của cây đều độc , và có thể gây tử vong nếu tiêu thụ quá nhiều. Các triệu chứng của ngộ độc cây Kim Tước có thể bao gồm buồn ngủ dữ dội, nôn mửa, co quắp, hôn mê, trào nước bọt và giãn con ngươi mắt. Trong một số trường hợp, tiêu chảy nghiêm trọng, và đôi khi co giật là rõ rệt như chứng phong đòn gánh . Độc tố chính của Kim tước là Cytisine , một chủ vận thụ thể nicotinic agonist . Cây Keo Thơm Keo nước hoa hay keo ta, keo thơm, rum tai, mâm côi danh pháp hai phần Acacia farnesiana là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được L. Willd. miêu tả khoa học đầu tiên Mô tả Cây bụi hay cây nhỏ cao 2-4m, cành vặn nhiều hay ít, không đều, nhẵn; lá kèm biến thành gai, nhọn, dài 1-2cm. Lá kép lông chim hai lần, có 4-8 cặp lá chét bậc nhất; các lá này lại mang 10-20 đôi lá chét bậc hai hình dải dài 3-4cm, rộng 3-4mm. Cụm hoa là những đầu hình cầu có cuống, xếp thành bó gồm nhiều hoa màu vàng nghệ. Quả màu nâu đen hình trụ thẳng hay cong, dài 4-7cm, rộng 1-1,3cm, chứa khoảng 10 hạt. Hạt rất cứng, hình bầu dục dẹt, màu hung, bao bởi một lớp thịt ra hoa tháng 5-11, có quả tháng 7-12. Bộ phận dùng Vỏ, rễ, lá, quả và hạt – Cortex, Radix, Folium, Fructus et Semen Acaciae Farnesianae. Nơi sống và thu hái Loài liên nhiệt đới mọc hoang. Cũng được trồng làm cây cảnh và lấy hoa chiết tinh dầu thơm. Thu hái các bộ phận của cây quanh năm. Thành phần hoá học Cành và quả có chất gôm hoà tan, giàu tanin ở quả 23%. Hoa chứa tinh dầu, hàm lượng 0,1-0,2%, trong đó có alcol farnesol, geraniol, linalol… và một ether là salicylat metyl. Tính vị, tác dụng Tinh dầu có mùi mạnh, nóng và bền. Cây có tính chất làm se, tạo nhầy. Vỏ rễ thu liễm; rễ và lá nối gân xương. Công dụng Vỏ dùng làm thuốc thu liễm cầm máu. Nước sắc vỏ dùng rửa trong bệnh lậu. Lá rất dịu, đem luộc chín dùng đắp mụn nhọt, còn nước thì dùng rửa. Quả dùng nấu nước gội đầu. Hạt dùng để tẩy giun đũa. Ở Trung quốc, rễ, lá dùng trị dao chém, gãy xương. Cây Phượng Vĩ Phượng hay phượng vĩ, phượng vỹ, xoan tây, điệp tây danh pháp hai phần Delonix regia họ Fabaceae, là một loài thực vật có hoa sinh sống ở vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Tên gọi trong tiếng Trung của nó là 鳳凰木 phượng hoàng mộc, 金鳳 kim phượng. Tên thông dụng trong tiếng Anh là Flamboyant, Royal poinciana và Mohur tree. Trong tiếng Việt, nên phân biệt Phượng là cây to đại thụ, cao tới 20 mét, trái dài 1 mét, rất nặng; còn phượng vỹ, cây nhỏ, cao tối đa 5 mét, trái dài 6 phân, hoa giống hình chim phượng với đuôi dài nên gọi là phượng vỹ có nghĩa là đuôi chim phượng. Cây Me Tây Muồng Ngủ, Muồng Tím, Còng Còng hay còn gọi là muồng tím, muồng ngủ, me tây,.. tại các nước khác được biết đến với các tên gọi cây Saman, Rain tree, Monkey pod, Filinganga, Gouannegoul, Marmar, T amalini, Palo de China… Còng có danh pháp hai phần là Samanea saman và rất nhiều danh pháp đồng nghĩa khác như Albizia saman, Enterolobium saman, Inga saman, Pithecellobium saman… cây thuộc phân họ Mimosoideae, họ Fabaceae, bộ Đậu Fabales. Mô tả Cây gỗ cực lớn, cao từ 15-25 m, trong điều kiện thích hợp có thể cao đến 50 m, gốc có bạnh vè lớn. Đường kính thân và tán cây rất lớn, có khi tán cây rộng đến 30 m, hơn cả chiều cao của cây, tán lá rất rậm rạp, luôn luôn xanh có hình mâm xôi hay hình dù. Vỏ cây màu nâu đen. Cụm hoa đầu, hoa nhỏ có năm cánh dính màu hồng hoặc tím nhạt, khi nở bung ra rất đẹp và thơm. Lá kép lông chim hai lần chẵn, mang từ 6-16 cặp lá nhỏ, lá nhỏ dài 2–4 cm, lá ngủ trước khi mặt trời lặn hoặc trời vần vũ chuyển mưa nên có tên gọi là cây mưa. Quả đậu, dẹp, không nứt, màu đà đen, dài 10– 20 cm Sinh Trưởng Cây sinh trưởng cực nhanh và có biên độ sinh thái rất rộng, thích nghi hầu như với mọi điều kiện khí hậu thời tiết từ vùng biển cực kỳ khắc nghiệt cho đến vùng trung du, đồi núi; cây phù hợp với đa số các loại đất, có thể chịu được đất chua với độ pH từ 3,5; cây có khả năng chịu han rất cao, lượng mưa thích ứng từ 600–3000 mm. Ở Phan Rang Ninh Thuận là vùng đất được xem là có lượng mưa thấp nhất Việt Nam 500mmm cũng có thể trồng còng và cho cây phát triển rất tốt. Sử Dụng Công dụng quan trọng của cây Còng là làm cây che bóng, cây cảnh quan rất tốt do cây mọc nhanh, có tán đẹp và rộng, cây ít bị trốc đổ khi có gió bão. Có thể trồng trên đường phố, công viên, trường hoc, bệnh viện, các khu dân cư lớn… Ngoài ra cây còng còn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực gỗ dùng đóng đồ gỗ thông thường, để khảm, chạm đồ thủ công mỹ nghệ cho khách du lịch. Tại Hawaii gỗ Còng là một trong các gỗ thương phẩm đặc trưng dùng làm đồ lưu niệm như muỗng, nĩa, đồ treo trên tường. Trái và lá Còng do có đến 13-18% protein nên là một nguồn cung cấp thực phẩm rất tốt cho gia súc dê, bò, cừu…. Cây trên 5 tuổi có thể cung cấp đến 550 kg thực phẩm xanh/ năm. Ở Mỹ La tinh quả còng dùng làm nước giải khát để uống tương tự nước me. Nhiều bộ phận cây cũng có tác dụng làm thuốc như tại Philippin vỏ và lá cây được dùng trị bệnh tiêu chảy, tại Venezuela rễ cây dùng trị bệnh ung thư dạ dày, tại Ấn Độ hạt được dùng để nhai trị vết thương ở cuống họng. Cây Trắc Cẩm Lai Trắc hay còn gọi cẩm lai nam bộ danh pháp khoa học Dalbergia cochinchinensis là loài thực vật thuộc họ Đậu được Pierre mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1898. Trong danh pháp hai phần thì tính từ -cochinchinensis là chỉ xuất xứ Nam Kỳ của xứ Đông Dương thuộc Pháp cũ. Hình Thái Cây gỗ lớn, cao 25 mét, đường kính có thể tới 1m, gốc thường có bạnh vè. Vỏ nhẵn, màu xám nâu, nhiều xơ, vết đẽo dày màu vàng nhạt sau đỏ nâu. Cành nhiều, cành non mảnh nhẵn, lốm đốm nốt sần. Lá kép lông chim 1 lần mọc cách, dài 15–20 cm. Cuống lá dài 10–17 cm mang 7-9 lá chét. Lá chét hình trái xoan đầu nhọn dần, có mũi lồi ngắn. Hoa tự hình chùm hoặc xim viên chùy ở nách lá, các lá bắc sớm rụng. Hoa lưỡng tính, không đều; đài hợp gốc, đỉnh xẻ 5 thùy, tràng hoa màu trắng. Nhị có cong thức 9+1. Quả đậu mỏng, dài 5–6 cm, rộng 1 cm, mang 1-2 hạt màu nâu, hạt nổi gồ ở quả Sinh Thái Cây trắc phát triển tương đối chậm. Lúc nhỏ thì chịu bóng, lớn lên ưa sáng. Cây mọc rải rác trong rừng, thường xanh hoặc nửa rụng lá. Cây trắc mọc ở những nơi có độ cao tuyệt đối không quá 500m. Vào mùa khô, trắc rụng lá nhưng dễ nảy chồi mới. Cây Sưa Trắc Thối Sưa hay còn gọi trắc thối danh pháp khoa học Dalbergia tonkinensis Prain, là một loài cây thân gỗ thuộc họ Đậu Fabaceae được Prain mô tả khoa học lần đầu năm 1901. Loài này từng có thời gian được xếp làm thứ thực vật của loài Dalbergia rimosa trắc dây Đặc điểm sinh học Là cây gỗ nhỡ, rụng lá theo mùa, cao từ 6-12m cũng có thể cao tới 15m, sinh trưởng trung bình. Thân cây dạng hợp trục, dáng phân tán. Vỏ thân cây màu vàng nâu hay xám, nứt dọc. Cành non màu xanh, có lông mịn thưa. Lá mọc cách, cấu tạo lá dạng kép lông chim lẻ, mỗi là kép có từ 9-17 lá chét đính so-le trên cuống chính. Lá chét hình xoan thuôn, đầu nhọn hoặc có mũi ngọn, đuôi tròn, mặt dưới phiến lá thường có màu tái trắng. Kích thước lá chét dài từ 6–9 cm, rộng từ 3–5 cm, lá ché đính ở đầu cuống kép thường có kích thước lớn hơn các lá còn lại. Cuống chính và các cuống lá chét không lông, phiên lá chét không lông. Có lá kèm nhỏ không lông, sớm rụng. Hoa mọc ra từ nách lá, thường xuất hiện trước khi lá mọc đầy đủ. Hoa tự tán gồm nhiều bông màu trắng, có kích thước 7-9mm, mùi thơm nhẹ. Mùa hoa vào tháng 2-3. Quả dạng đậu hình trứng thuôn dài, dài 5–7,5 cm, rộng khoảng 2-2,5 cm. Quả chứa 1-2 hạt, mỗi hạt có đường kính khoảng 8-9mm, hình thận dẹp. Quả khi chín không tự nứt. Sinh Thái Là cây ưa sáng, ưa đất sâu, dày, độ ẩm cao. Phân bố ở đai độ cao tuyệt đối dưới 500m. Trong tự nhiên tìm thấy trong rừng mưa nhiệt đới và rừng mưa nhiệt đới gió mùa. Chủ yếu phân bổ ở Việt Nam và được tìm thấy rải rác tại Hải Nam, Trung Quốc tại đây gọi nó là 越南黄檀 – Hoàng huỳnh đàn Việt Nam. Sử Dụng Sưa có tán thưa, hoa trắng và thơm, có thể được trồng làm cây cảnh quan đường phố. Gỗ Sưa cho mùi thơm quyến rũ thoảng nhẹ kiểu hương trầm. Khi đốt tàn có màu trắng đục, mùi khó chịu nên được gọi là Trắc thối. Gỗ Sưa chỉ dùng phần gỗ lõi cho giá trị kinh tế cao hơn phần gỗ giác. Gỗ sưa thớ mịn, vân thớ gỗ đẹp. Thời phong kiến vua chúa dùng gỗ trắc thối để đóng đồ nội thất cao cấp trong cung đình vì nó vừa là hương liệu vừa là dược liệu. Từ những năm 90 của thế kỉ XX, giá trị thương phẩm của gỗ Sưa trên thế giới tăng đột biến do nhiều người Trung Quốc đổ xô săn lùng gỗ Sưa để đóng quan tài hoặc ướp xác như các vị hoàng đế Trung Quốc trước đây. Người ta cho là quan tài đóng bằng gỗ trắc thối có khả năng giữ được xác lâu, không bị phân hủy. Hoa Sưa Bồ Kết Ba Gai Bồ kết ba gai danh pháp hai phần Gleditsia triacanthos là một loài cây gỗ lá sớm rụng có nguồn gốc ở miền đông Bắc Mỹ. Nó chủ yếu được tìm thấy trong các vùng đất ẩm ướt ven các thung lũng sông từ đông nam Nam Dakota kéo dài về phía nam tới New Orleans và miền trung Texas và về phía tây tới trung Pennsylvania. Sử Dụng Quả Bồ kết có thể sử dụng để nấu làm nước gội đầu, trị gàu rất tốt. Mặt khác, nó còn có tác dụng kích thích da đầu mọc tóc. Nước nấu quả Bồ kết bôi lên da trong khi tắm sẽ làm sạch lớp ghét bám trên da một cách rất hữu hiệu, làm cho da sạch sẽ, mịn màng. Tuy nhiên, nếu để nước bồ kết dính vào mắt thì sẽ làm cho niêm mạc trong mắt bị bỏng rát, sưng đỏ rất nguy hiểm. Bồ Kết được trồng làm hàng rào để ngăn gia súc vì có nhiều gai nhọn. Cây Trinh Nữ Trinh nữ từ tiếng Latinh pudica hay còn gọi là cây xấu hổ, mắc cỡ, cây thẹn, hàm tu thảo; danh pháp khoa học Mimosa pudica L. là một loại thực vật sống ít năm thuộc họ Đậu. Loài này có đặc điểm là, các lá kép gập vào trong và cụp xuống mỗi khi bị chạm vào hoặc bị rung lắc để tự bảo vệ khỏi tổn hại, rồi mở lại vài phút sau đó. Loài cây có nguồn gốc từ Nam Mỹ và Trung Mỹ, nhưng giờ là một loài cỏ dại ở vùng nhiệt đới. Nó có thể được tìm thấy ở các quốc gia châu Á như Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines và Jamaica. Nó phát triển chủ yếu ở những khu vực râm yên tĩnh, ít người sinh sống, dưới gốc cây. Năm 2014, các nhà khoa học của Úc đã phát hiện ra cây trinh nữ có khả năng ghi sự việc đã xảy ra như động vật. Miêu tả Thân thảo đứng đối với cây non hoặc bò trườn đồi với cây trưởng thành. Thân cây có thể dài tới 1,5 m bò trườn hoặc tựa leo gần mặt đất, đối với thân cây tựa leo mỏng manh hơn thân cây bò trườn trên mặt đất. Vỏ thân cây có gai biểu bì thưa hoặc dày. Lá cây kép lông chim 2 lần chẵn, có từ 1-2 cặp lá thứ cấp, mỗi lá thứ cấp lại có từ 5-13 cặp lá chét. Các cuống lá sơ cấp cũng có gai. Những bông hoa tím hoặc hồng ở đầu cuống mọc lên từ nách lá vào giữa mùa hè. Khi cây càng lớn thì hoa mọc càng nhiều hơn. Những bông hoa được thụ phấn nhờ gió và côn trùng. Các hạt mầm có vỏ cứng nhằm hạn chế sự nảy mầm. Rễ cây trinh nữ tạo nên carbon disulfide, ngăn ngừa một số loại nấm gây bệnh và cộng sinh từ phát triển trong vùng rễ của cây. Điều này cho phép hình thành các nốt sần trên rễ có chứa các cố định đạm nội cộng sinh, nhằm sửa chữa nitơ trong khí quyển và chuyển đổi nó thành một dạng có thể sử dụng bởi thực vật. Tất cả các phần của cây trinh nữ có nhiều nguồn cho là không tốt đối với sức khỏe, tuy không được liệt vào danh sách cây độc. Vì vậy khi trồng trong nhà nên ở những chỗ trẻ con và súc vật không chạm tới. Cây Dáng Hương Giáng Hương Giáng/dáng hương hay giáng/dáng hương quả to, giáng/dáng hương căm-pôt, giáng/dáng hương chân, song lã có danh pháp hai phần là Pterocarpus macrocarpus. Đây là một loài cây thuộc họ Đậu, là loài bản địa của Đông Nam Á, bao gồm đông bắc Ấn Độ, Myanma, Lào, Thái Lan và Việt Nam. Tại Việt Nam, cây này phân bố ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Giáng hương thường mọc ở độ cao từ 100-800m so với mực nước biển, cây chịu được nhiêt độ tối cao tuyệt đối 37,7-44,4oC và tối thấp tuyệt đối 4,4-11,2oC, mọc tốt ở vùng có lượng mưa 1270–1520 mm/năm. Ở Việt Nam cây này phân bố ở các tỉnh Tây Nguyên, Nam Bộ như Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Phú Yên, Đồng Nai, Tây Ninh. Mọc trên nhiều loại đất như đất xám, đất đỏ bazan. Họ Đậu hay còn gọi họ Cánh bướm danh pháp khoa học Fabaceae, đồng nghĩa Leguminosae,[3] Papilionaceae[3] là một họ thực vật trong bộ Đậu. Đây là họ thực vật có hoa lớn thứ ba, sau họ Phong lan và họ Cúc, với khoảng 730 chi và loài.[4][5] Các loài đa dạng tập trung nhiều trong các phân họ Trinh nữ Mimosoideae và phân họ Đậu Faboideae, và chúng chiếm khoảng 9,4% trong tổng số loài thực vật hai lá mầm thật sự.[6] Ước tính các loài trong họ này chiếm 16% các loài cây trong vùng rừng mưa nhiệt đới Nam Mỹ. Ngoài ra, họ này cũng có mặt nhiều ở các rừng mưa và rừng khô nhiệt đới ở châu Mỹ và châu Phi.[7] Cho đến nay vẫn còn những tranh cãi về việc họ này bao gồm 3 phân họ hay tách các phân họ của nó thành các họ riêng biệt. Có rất nhiều thông tin về dữ liệu phân tử và hình thái học chứng minh họ Đậu là một họ đơn ngành.[8] Quan điểm này được xem xét không chỉ ở cấp độ tổng hợp khi so sánh các nhóm khác nhau trong họ này và các quan hệ họ hàng của chúng mà còn dựa trên các kết quả phân tích về phát sinh loài gần đây dựa trên DNA.[9][10][11] Các nghiên cứu này xác nhận rằng họ Đậu là một nhóm đơn ngành và có quan hệ gần gũi với các họ trong bộ Đậu là họ Viễn chí Polygalaceae, họ Suyên biển Surianaceae, và họ Quillajaceae.[12] Bài đăng phổ biến từ blog này Cây hoa ngót nghẻo hay móng hổ chứa chất kịch độc khiến người trúng phải đại tiểu tiện ra máu, trụy tim mạch, suy hô hấp và tử vong. Ngót nghẻo có tên khoa học là Gloriosa superba thuộc họ hoa Bả chó Colchicaceae có nhiều tên gọi khác nhau như hoa Loa kèn lửa flame lily, hoa Móng hổ tiger claw. Ở Việt Nam, ngoài tên gọi Ngót nghẻo loài hoa này còn được biết đến với các tên như Ngoắt nghẻo, Ngọt nghẹo, Huệ lồng đèn.. Cây phân bố rộng ở các vùng nhiệt đới và miền nam châu Phi, các vùng nhiệt đới châu Á. Tại Việt Nam, Ngót nghẻo sống nhiều ở miền Trung, Tây Nguyên, thường mọc hoang dã ở rừng ngập mặn ven biển và các bìa rừng núi cao. Loài hoa này có thể sống được cả những nơi đất nghèo dinh dưỡng nhất chẳng hạn như các cồn cát. Ngót nghẻo có thân cây cao tới 4 mét, hoa to sặc sỡ với 6 cánh đỏ tươi hoặc đôi khi cũng có màu cam, vàng nhạt, dài nhọn như móng hổ. Quả cây có thể dài tới 12 cm chứa các hạt màu đỏ. Tất cả các thành phần của cây Ngót nghẻo đều chứa chất độc có thể gi Cây thồm lồm mọc hoang ờ khắp nơi trong nước ta, thường ít được dùng, hay một số nơi người ta dùng lá tươi gíã hay nhai nhỏ đắp lên nơi tai bị loét gọi là bệnh thồm lồm ăn tai Còn gọi là đuôi tôm, mía gíò, bẻm, mía bẻm, mía nung, cây lôm, chuồng chuồng, hỏa khôi mẫu, săm koy Luang Prabang. Tên khoa học Polygonum sinense L. Thuộc họ Rau răm Polygonaceơe. Ta dùng toàn cây hay lá tươi hoặc phơi khô. Mô tả cây Cây thảo sống dai, thân đứng, nhiều khi mọc rất dài và leo, nhẩn và có rãnh dọc. Lá hình bầu dục hay hơi thuỏn, phía cuống lá bầu bầu, ngọn lá hẹp nhọn, lá phía trên nhỏ hơn và gần như không cuống và ôm vào thân, cuống ngấn, ở phía dưới có hai tai nhỏ tròn, bẹ chìa mòng và ngấn hơn các dóng của thân. Cụm hoa thành đầu họp thành xim ngù tân cùng, có cuống phủ rất nhiều lông có hạch tiết. Quả ba cạnh thuôn dài. Phân bố, thu háì và chế biến Cây thồm lồm mọc hoang ờ khắp nơi trong nước ta, thường ít được dùng, hay một số nơi người ta dùng lá tươi gíã hay nhai nhỏ đắp lên nơi tai bị l Còn gọi là đơn kim, quỷ trâm thảo, manh tràng thảo, tử tô hoang, cúc áo. Tên khoa học Bidens pilosa L. Thuộc họ Cúc Asteraceae. Mô tả cây Đơn buốt là một loại cò mọc hằng năm, thân cao 0,4-1m. Thân và cành đều có những rãnh chạy dọc, có lông. Lá mọc dối, cuống dài, phiến lá kép gồm 3 lá chét. Lá chét hình mác, phía đáy hơi tròn, cuống ngắn, mép lá chét có răng cưa to thô. Cụm hoa hình đầu, màu vàng, mọc ở nách lá hay ở đầu cành, mọc đơn độc hay từng đôi một. Quả bế hình thoi, 3 cạnh, không đểu, dài 1cm, trên có rãnh chạy dọc. Phân bố, thu hái, chế biến Mọc hoang ở khấp nơi tại miền Bắc, miển Trung Việt Nam, còn thấy mọc ở Trung Quốc, ấn độ, Thái Lan, Phìlipin. Thường dùng toàn cây tươi hay phơi khô. Thường thu hái vào mùa hè, lúc cây đang ra hoa. Có nơi chỉ dùng hoa phơi khô ngâm rượu. Thành phần hóa học Chưa thấy tài liệu nghiên cứu. Công dụng và liều dùng Dùng ngoài, đơn buốt thường dùng nấu nước 100 đến 200g nấu với 4-5 lít nước tấm trong trường hợp bị mẩn ngứa, bã xát kỹ lên vế Cây họ đậu Được bà con nông dân sử dụng như một loại cây điều hòa đạm cho đất, cân bằng chất dinh dưỡng trong đất. Bạn đã bao giờ tìm hiểu tất cả các loại cây họ đậu thường mọc chưa? Mời các bạn theo dõi bài viết dưới đây của Thế Giới Làm Vườn để tìm hiểu rõ hơn về chủ đề này nhé! Đậu nho Đậu nhỏ mọc nhiều ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng, Lạng Sơn Rễ cây họ đậu phát triển mạnh, có nhiều hạch. Cây sống 1 năm, chịu hạn, mọc lá nhanh, 3 tháng là phủ đất. Hàm lượng dinh dưỡng trong lá cao nên làm phân bón rất tốt. Năng suất chất xanh 25-30 tấn / ha. Đậu Hà Lan nhỏ được trồng để cố định nitơ trong đất Đậu xanh, đậu đen Đậu là loại cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn, chỉ khoảng 60-90 ngày. Trồng cây họ đậu có ưu điểm là tiết kiệm nước tưới nên thích hợp với những vùng có nguy cơ bị hạn. Ngoài ra, trồng xen hoặc đậu cuộn cũng giúp cải thiện độ phì nhiêu của đất. Trồng lạc đậu phộng Cũng như các cây họ đậu khác, lạc là cây có khả năng cố định sinh học nitơ, chất này rất quan trọng đối với cây trồng trong quá trình sống của vi sinh vật. Người ta ước tính có thể cố định 72 – 124 kg / N / ha / năm sau khi trồng lạc. Ngoài ra còn có một khối lượng sinh học lớn là lá và thân cây lạc bị phân hủy sau khi thu hoạch để lại một lượng mùn đáng kể, cây lạc còn được coi là một loại cây che phủ rất tốt, nếu được trồng ở mật độ thích hợp, quản lý tốt thảo mộc xấu lúc đầu, lạc . hoàn toàn có khả năng kiểm soát cỏ dại trong suốt mùa sinh trưởng, do đó giảm đáng kể khối lượng công việc chuẩn bị đất để trồng. gieo trồng vụ sau. Cây lạc có khả năng cố định đạm trong đất rất đậu nành đậu nành Đậu nành còn là cây cải tạo đất rất tốt vì các hạch trong rễ của cây đậu tương là những cây chứa đạm nhỏ, các vi khuẩn Rhizobium, Japonium trong các nốt sần sống cộng sinh với cây đậu tương để tổng hợp nitơ khí quyển, làm giàu nitơ cho đất. . Trồng lạc dại Họ hàng với cây lạc, lạc dại cũng là cây họ đậu có khả năng cộng sinh với vi khuẩn cố định đạm trong không khí, chúng phát triển nhanh sinh khối dòng, lá, giữ ẩm và làm giàu mùn cho đất. Cây lạc dại chịu được đất kém và điều kiện thời tiết khắc nghiệt nên có thể trồng ở nhiều vùng khác nhau. Có thể trồng dưới gốc cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm dứa, cà phê, tiêu, xen ngô trên đất dốc. Cây đậu thái lan Cây đậu có nguồn gốc từ Châu Phi và Châu Á nhiệt đới. Ở Việt Nam, đỗ trọng là loại cây bản địa phân bố ở các tỉnh miền núi, đặc biệt là từ Quảng Bình trở vào. Ngoài tác dụng cải tạo đất nhờ hàm lượng đạm trong lá khá cao, khoảng 15-16% chất khô, khoảng 25-28% đạm lúa mì và nitơ được cố định bởi vi khuẩn nốt sần từ không khí, đậu mèo còn diệt cỏ dại rất hiệu quả ngay cả cỏ dại. Đậu mèo được nhiều người đan xen với ngô. Cây đậu Thái Lan khi trồng có thể cải thiện lượng đạm trong đất Là loài cây họ đậu mọc thẳng, sống 2-3 năm, chịu hạn tốt, sinh khối lớn, nhiều khía. Đây là loại cây cải tạo đất rất tốt với lượng đạm trong lá khoảng 22-23% chất khô; protein lúa mì khoảng 34-37% và nitơ được cố định bởi vi khuẩn nốt sần từ không khí; Có thể trộn sắn và ngô. Hạt và quả chưa chín đều có thể ăn được. Đậu Sơn Tây Đậu Sơn Tây hay còn gọi là đậu Hà Lan, là một loại cây có nguồn gốc từ Châu Á, được du nhập vào nước ta từ Philippin năm 1997. Đậu Sơn Tây có thể sinh trưởng và phát triển tốt ở những vùng đất chua, nhiều đá và khô, rễ có nhiều Nitơ. nút cố định vi khuẩn nên có tác dụng cải tạo đất rất tốt. Cây chịu hạn tốt nhưng không chịu úng lâu ngày. Cây đậu thủy triều Là cây họ đậu, cây thân thảo chịu hạn rất tốt nhưng không chịu được đất xấu. Batica là loại cây bụi, cao khoảng 2-6, là cây cố định đạm. Loại cây này có tuổi thọ ngắn và được nhân giống bằng cách trồng trực tiếp. Đây cũng là một trong những loại cây họ đậu có khả năng cố định đạmCây đậu bướm Cây đậu bướm có nguồn gốc từ lục địa Châu Mỹ và được trồng ở nhiều nước nhiệt đới. Ở nước ta nó đã trở thành cây bản địa ở nhiều vùng núi, chứng tỏ nó đã được du nhập từ lâu. Là loại cây leo mọc nhanh, thân và cành vươn dài từ 3-5 m, tốc độ đẻ nhánh mạnh, bộ rễ ăn nông có nhiều hạch, ra hoa vào tháng 8-10, hạt chín vào tháng 12, hạt nhẹ. lớn lên. một cách tự nhiên. cây họ đậu Đậu là cây chịu được đất bạc màu, đất cát pha, khô hạn, ít mưa. Cây dùng làm phân xanh phủ đất rất tốt. Đậu có thể sống 2 – 3 năm, vào mùa khô thân cây bị chết, nhưng củ vẫn tái sinh vào mùa mưa năm sau, hạt rơi rụng dễ mọc ngoài tự nhiên. So với các loại cây họ đậu khác thì năng suất rất cao, sau 6 tháng đã cho hơn 2 tấn chất xanh / ha, tương đương 700 kg chất khô, kể cả lượng lá rụng còn sót lại sau mùa sinh trưởng. . 15 tấn / ha chất khô. Đây là nguồn chất hữu cơ tuyệt vời để cải tạo đất. Trong cây đậu cô ve có tác dụng cải tạo đất rất đây là những thông tin Thế Giới Làm Vườn muốn chia sẻ đến các bạn về các loại cây họ đậu có khả năng cải tạo đất. Còn rất nhiều thông tin về kỹ thuật trồng trọt, làm vườn đang chờ bạn khám phá khi truy cập trực tiếp vào website Xin cảm ơn quý khách hàng đã dành thời gian quan tâm đến bài viết! About Latest Posts Đăng nhập

các loại cây họ đậu ở việt nam